BÌNH LUẬN ÁN

Trích yếu 05/2018/KDTM-PT “V/v Tranh chấp giữa thành viên của công ty với công ty”
 
Đương sự Công Ty Cổ Phầu Đầu Tư V Nguyên đơn
Công Ty Cổ Phần O (gọi tắt là “CTCP O”) Bị đơn/Người kháng cáo
Toà án TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Ngày 12/03/2018

 

Tình tiết

Nguyên đơn là cổ đông sở hữu 144.890 cổ phần (tương đương 30,45% vốn điều lệ) của CTCP O. Khi triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông vào năm 2017, CTCP O đã gửi thông báo mời họp cho các cổ đông, tuy nhiên thông báo được gửi cho Nguyên đơn được xác định trễ hơn 01 ngày so với quy định của pháp luật và Điều lệ Công ty. Ngoài ra, thông báo mời họp cũng không đính kèm các tài liệu liên quan đến chương trình họp theo quy định.

Tại cuộc họp, Đại hội đồng cổ đông của CTCP O đã thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2017 ngày 22/03/2017 (Sau đây gọi là “Nghị quyết ĐHĐCĐ”). Nghị Quyết ĐHĐCĐ quyết định nhiều vấn đề, trong đó có nội dung thông qua chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty (ESOP). Các đối tượng được tham gia chương trình ESOP là các cán bộ chủ chốt của CTCP O, những người cũng có quyền biểu quyết thông qua các quyết định này.

Lịch sử tố tụng

Nguyên đơn khởi kiện tại TAND tỉnh Đắk Lắk để yêu cầu hủy toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ; yêu cầu vô hiệu hóa một phần Điều lệ CTCP O do trái quy định của Luật doanh nghiệp; yêu cầu bồi thường thiệt hại các chi phí đi lại, ăn ở tham gia tố tụng, chi phí luật sư; bãi nhiệm các thành viên HĐQT nhiệm kỳ 2016 – 2020 do vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ quản lý, cố ý làm trái quy định của Luật doanh nghiệp; và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là dừng việc phát hành cổ phần để tăng vốn của CPTP O.

Toà án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ, và bác bỏ các yêu cầu còn lại. Bị đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm công nhận toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ của CTCP O. Phiên tòa phúc thẩm được tiến hành vắng mặt Nguyên đơn theo quy định pháp luật.

 

Câu hỏi pháp lý

  1. Việc CTCP O vi phạm về trình tự và thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông có phải là cơ sở pháp lý để hủy bỏ toàn bộ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông hay không?
  2. Điều kiện để Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cho người lao động (ESOP) hợp lệ? Nội dung Nghị Quyết của ĐHĐCĐ vi phạm pháp luật có phải có sở pháp lý để hủy toàn bộ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông hay không?

Quyết định và cơ sở pháp lý

  1. Việc CTCP O không thực hiện đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều 139 Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2020) và điều lệ CTCP O là cơ sở pháp lý để Nguyên Đơn thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2020). Tòa án xác định rằng CTCP O đã vi phạm khi thông báo mời họp chậm so với quy định và không kèm theo tài liệu về chương trình họp. Do đó, cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấp đều xác định yêu cầu này của Nguyên đơn là hợp lệ và chấp nhận yêu cầu hủy toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ.
  2. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông CTCP O thông qua chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu cho người lao động (ESOP) là cán bộ chủ chốt của công ty là không khách quan và vi phạm pháp luật tại Khoản 2 Điều 36 Thông tư 162/2015/TT-BTC ngày 26/10/2015 (Điều 65 Nghị định 155/2020/NĐ-CP). Theo quy định, những người có quyền lợi liên quan đến đợt phát hành không được tham gia biểu quyết thông qua nội dung này, tuy nhiên trên thực tế, tại Cuộc họp ĐHĐCĐ CTCP O, những người có quyền lợi liên quan lại tham gia bỏ phiếu thông qua chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu cho chính họ. Do đó, tòa án xác định quyết định liên quan đến chương trình lựa chọn và kế hoạch phát hành cổ phiếu cho người lao động là trái pháp luật và theo đó, Tòa án căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 147 Luật doanh nghiệp 2014 (Khoản 2 Điều 151 Luật doanh nghiệp 2020) cùng với vi phạm như mục 1 nêu trên để tuyên hủy toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ.

Bình luận

  • Về điều kiện hủy bỏ Nghị quyết của ĐHĐCĐ do vi phạm về hình thức:

Theo quy định tại Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2014, chỉ cần vi phạm về mặt hình thức (trình tự và thủ tục), thì cổ đông có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, không phân biệt đó là vi phạm nghiêm trọng hay không nghiêm trọng. Đây cũng là cơ sở áp dụng trong bản án nêu trên. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra rằng Tòa án tuyên hủy toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ của CTCP O căn cứ trên vi phạm về hình thức quy định tại Khoản 1 Điều 147 Luật doanh nghiệp 2014 – cụ thể, với việc gửi thông báo chậm 01 ngày so với quy định và không kèm theo tài liệu liên quan – liệu có phải là một vi phạm nghiêm trọng làm thay đổi cơ bản nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ, ảnh hưởng đến lợi ích cổ đông và công ty hay không? Theo đánh giá chủ quan của học viên, câu trả lời có lẽ là không. Do vậy, việc Tòa án tuyên chấp nhận yêu cầu hủy bỏ toàn bộ nội dung của Nghị quyết ĐHĐCĐ CTCP O, nếu chỉ căn cứ theo vi phạm về hình thức, có lẽ là không cần thiết và chưa hợp lý.

Về vấn đề này, Luật Doanh nghiệp 2020 hiện hành quy định mới như sau: “Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được nghị quyết hoặc biên bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến ĐHĐCĐ, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật này có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ trong các trường hợp sau đây: 1. Trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của ĐHĐCĐ vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật này và Điều lệ công ty, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 152 của Luật này”. Quy định này được hiểu rằng, cổ đông, nhóm cổ đông chỉ có quyền khởi kiện yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ khi đáp ứng một trong hai điều kiện: hình thức hoặc nội dung. Về mặt hình thức, khi trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra nghị quyết của ĐHĐCĐ vi phạm nghiêm trọng Luật Doanh nghiệp 2020 và Điều lệ công ty. Đây có lẽ là một điểm tiến bộ của Luật Doanh nghiệp 2020 khi giải quyết được câu chuyện những vi phạm nào nên được xem là vi phạm đáng kể về mặt hình thức và những vi phạm nào là không đáng kể mà hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ thì thật sự không cần thiết. Tuy nhiên, việc xác định tiêu chí vi phạm nghiêm trọng về mặt hình thức như thế nào vẫn còn bỏ ngỏ và được xem là một thiếu sót trong Luật doanh nghiệp 2020. Có vẻ như việc liệt kê hết những trường hợp nào được coi là vi phạm nghiêm trọng trong trình tự, thủ tục triệu tập và ra nghị quyết của ĐHĐCĐ là rất khó khăn, do đó các nhà làm luật đã bỏ ngỏ nội dung này và dành quyền quyết định cho hội đồng xét xử trong từng vụ án. Tuy nhiên, pháp luật cần có một quy định về nguyên tắc để tòa án có thể giải thích vi phạm nghiêm trọng về mặt hình, nguyên tắc đó có thể được hiểu rằng: những vi phạm đó phải làm thay đổi cơ bản nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ, ảnh hưởng đến lợi ích cổ đông và công ty. Do đó, Luật Doanh nghiệp 2020 nên tiếp cận theo cách thức liệt kê các “trường hợp cứng” về vi phạm hình thức, và để mở một phần cho các thẩm phán linh hoạt xét xử. Trên cơ sở đó, các cổ đông hiểu rõ quyền yêu cầu khởi kiện cũng như thẩm phán có cơ sở pháp lý đưa ra phán quyết nhất quán hơn.

Quay lại với vụ án nêu trên, nếu xem xét một cách cẩn trọng, lỗi vi phạm về hình thức của CTCP O trong trường hợp này có thể xem là một lỗi không nghiêm trọng, do đó, chiếu theo Luật Doanh nghiệp 2020 thì việc Tòa án tuyên hủy bỏ toàn bộ Nghị quyết ĐHĐCĐ có thể không hợp lý (Học viên đang chỉ xem xét khía cạnh vi phạm về hình thức mà chưa bàn luận tới vi phạm về nội dung).

  • Về vấn đề cổ đông có thẩm quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ:

Mặc dù nội dung bản án không có nêu rõ tình tiết Nguyên Đơn – với tư cách cổ đông của CTCP O – tại cuộc họp ĐHĐCĐ có biểu quyết thông qua Nghị Quyết của ĐHĐCĐ hay không, câu hỏi giả thuyết học viên đặt ra đó là: Giả sử tại cuộc họp của ĐHĐCĐ, Nguyên đơn đã bỏ phiếu biểu quyết thông qua Nghị quyết của ĐHĐCĐ, nhưng sau đó Nguyên đơn lại khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của ĐHĐCĐ, trường hợp này liệu có mâu thuẫn hay không hợp lý hay không? Quy định pháp luật hiện tại không điều chỉnh tới vấn đề này. Cụ thể, theo quy định tại Điều 151 và khoản 2 Điều 115 của Luật Doanh nghiệp 2020, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, nếu những cổ đông đã tham gia biểu quyết thông qua Nghị quyết của ĐHĐCĐ sau đó yêu cầu hủy bỏ phần nội dung mà họ đã đồng ý tán thành, liệu điều này có nên được chấp thuận hay không là một vấn đề mâu thuẫn.

Do đó, có lẽ Luật doanh nghiệp cần phải được sửa đổi theo hướng nếu xét về vi phạm nội dung của nghị quyết của ĐHĐCĐ thì cổ đông chỉ được quyền khởi kiện huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ khi họ đã bỏ phiếu không tán thành và ý kiến phản đối đó được ghi vào biên bản cuộc họp. Quy định như vậy sẽ đảm bảo tính thống nhất và đảm bảo quyền lợi của cổ đông cũng như tránh những mâu thuẫn vô lý.

  • Về điều kiện phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty.

Về điều kiện phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty, theo quy định của Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020, nếu điều lệ của công ty không có quy định khác, các quyết định liên quan đến việc phát hành ESOP có thể được thông qua với tỷ lệ ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành. Thêm vào đó, Quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị (nếu được ủy quyền bởi Đại hội đồng cổ đông) sẽ xác định tiêu chuẩn và danh sách người lao động được tham gia chương trình, cũng như nguyên tắc phân phối cổ phiếu cho từng đối tượng và thời gian thực hiện. Pháp luật đặt ra điều kiện: Những người có quyền lợi liên quan đến đợt phát hành không được tham gia biểu quyết trong việc này.

Tuy nhiên, Điều 64 Nghị định 155/2020/NĐ-CP chỉ rõ rằng những người được hưởng ESOP là những người lao động, đáp ứng các tiêu chuẩn được Đại hội đồng cổ đông thông qua hoặc ủy quyền cho Hội đồng quản trị. Điều này đồng nghĩa với việc quyền lựa chọn và xác định danh sách người lao động được hưởng ESOP nằm trong tay Hội đồng quản trị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Hội đồng quản trị thường do cổ đông lớn kiểm soát, và việc này có thể dẫn đến việc lợi ích của họ được ưu tiên. Thêm vào đó, việc đưa ra tiêu chuẩn và danh sách người lao động được hưởng ESOP thường được thực hiện bởi Hội đồng quản trị, trong khi người đưa ra quyết định này thường là Hội đồng quản trị, vốn do các cổ đông lớn kiểm soát. Điều này có thể tạo điều kiện cho việc tự chỉ định chính mình hoặc chỉ đích danh những người thân, có mối liên hệ với Hội đồng quản trị để hưởng lợi từ chương trình ESOP, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu trong công ty với chi phí thấp và rủi ro thấp hơn.

Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý và cân bằng lợi ích, những người có quyền lợi liên quan đến đợt phát hành ESOP không chỉ không được biểu quyết nếu chính họ là người hưởng lợi mà cũng không được quyền biểu quyết nếu những người thân, gia đình của họ là những người hưởng lợi.

  • Về thẩm quyền của Tòa án trong việc bãi nhiệm thành viên HĐQT

Trong bản án này, tòa án các cấp không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc bãi nhiệm các thành viên Hội đồng quản trị đương nhiệm, nhiệm kỳ 2016-2020 của CTCP O. Lý do là theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và cả Luật Doanh nghiệp 2020, thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị thuộc về Đại hội Đồng cổ đông (Khoản 1 Điều 160 Luật Doanh nghiệp 2020). Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, tòa án không có thẩm quyền trong việc bãi miễn, miễn nhiệm một thành viên hội đồng quản trị khỏi HĐQT của công ty cổ phần. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có thể xảy ra, nếu tòa án không được quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT, có thể xảy ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Cụ thể, nếu thành viên HĐQT chết hoặc mất tích thì Đại Hội Đồng Cổ Đông vẫn cần phải thông qua nghị quyết dể miễn nhiệm thành viên đó; và (các) cổ đông kiểm soát có thể bổ nhiệm (các) thành viên HĐQT không đủ tiêu chuẩn và điều kiện vào HĐQT để thực hiện các hành vi bất hợp pháp và gây thiệt hại cho các cổ đông thiểu số khác. Trong trường hợp này, các cổ đông thiểu số không thể yêu cầu tòa án bãi nhiệm, miễn nhiệm (các) thành viên HĐQT không đủ tiêu chuẩn và điều kiện đó. Điều này đặt ra vấn đề về quyền lợi của các cổ đông thiểu số có thể không được đảm bảo. Do đó, học viên cho rằng, các nhà làm luật cần nghiên cứu và bổ sung các trường hợp mà theo đó các cổ đông thiểu số có quyền yêu cầu Tòa án bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT./.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *